Tụng Kinh Cho Người Mới Mất – Tụng Kinh Gì? Tụng Khi Nào?

Nghi Thức Tụng Kinh Cho Người Mới Mất Sớm Siêu Thoát Chuẩn Xác Nhất

Tụng kinh cho người mới mất là một hành động mang nghĩa cử tốt đẹp nên làm. Mỗi cá nhân luôn mong muốn người thân trong gia đình mình luôn hạnh phúc an yên. Do đó, khi người thân yêu của mình về thế giới bên kia, những thành viên khác sẽ mong muốn linh hồn họ sẽ được thanh thản, an vui nơi cực lạc. Và những người đã mất cũng mong muốn.

Bạn đang xem Tụng Kinh Cho Người Mới Mất – Tụng Kinh Gì? Tụng Khi Nào? trong chuyên mục Tụng Kinh của website Tụng Kinh Tại Nhà

Vậy chúng ta tụng kinh cho người mới mất như thế nào? Nghi thức ra sao? Tất cả sẽ được chúng tôi tổng hợp chuẩn xác nhất và mang đến cho bạn.

Sơ Lược Về Tụng Kinh Cho Người Mới Mất

Sơ Lược Về Tụng Kinh Cho Người Mới Mất
Sơ Lược Về Tụng Kinh Cho Người Mới Mất

Tụng kinh cho người mới mất hay được gọi là cầu siêu, theo thuyết Phật giáo, cầu siêu là lời thỉnh cầu của thân nhân người đã khuất với mong muốn người đã khuất sẽ nhanh chóng giác ngộ, sớm được siêu thoát đến cõi Thiết Bàng hoặc đầu thai chuyển kiếp.

Tụng kinh cho người mới mất là một truyền thống lâu đời trong nghi lễ tiễn đưa người đã khuất của người Việt. Do đó, lễ cầu siêu phải được thực hiện đầy đủ và chỉnh chu. Bạn có thể dựa vào lời dạy của các nhà sư có kinh nghiệm cúng bái, tụng kinh cho người mới mất để hiểu rõ hơn về các nghi thức trong lễ tụng kinh cho người mới mất.

Một số bài kinh thường được sử dụng để tụng kinh cho người mới mất như:

Tại sao Nên Tụng Kinh Cho Người Mới Mất?

Trong vô số bài kinh Phật, kinh cầu siêu được sử dụng nhiều nhất trong buổi tang lễ, tụng kinh cho người mới mất trong 49 ngày. Tụng kinh cho người mới mất cầu siêu sinh nhằm nhắc nhở con cháu, vợ chồng… tưởng nhớ người đã khuất, nhớ đến những điều người đã khuất đã giúp đỡ mình, hoặc đôi khi những kỷ niệm không vui cũng sẽ được xóa bỏ.

Khi một người chết đi, chỉ còn lại linh hồn và thể xác ở đó cũng trở về cát bụi. Tâm hồn là thứ phải được giải phóng. Hát bài cầu nguyện là để nhắc nhở linh hồn và linh hồn của người đã khuất những gì họ phải làm. Những linh hồn này khi rời khỏi thân xác thường bất lực, không biết đi về đâu, đi về đâu và có ước muốn được đầu thai lần nữa. Chính những ham muốn này dễ biến thành ma quỷ, trở thành những linh hồn lang thang nơi trần gian.

Lễ cầu siêu tụng kinh cho người mới mất sẽ giúp linh hồn quay trở lại với ý định tốt đẹp ban đầu, hướng dẫn họ hướng tới ánh sáng của Phật pháp. Sẽ có người dẫn dắt tâm hồn họ đến cõi hạnh phúc.

Nghi thức Tụng Kinh Cho Người Mới Mất

Nghi thức Tụng Kinh Cho Người Mới Mất
Nghi thức Tụng Kinh Cho Người Mới Mất

Nghi thức tụng kinh cho người mới mất sẽ gồm 3 bài. Để nghi lễ tụng kinh cho người mới mất được tiến hành chuẩn chỉnh để nhất có thể, bạn cần thực hiện theo trình tự sau:

  • Thắp hương: Bạn thắp 3 nén nhang, quỳ thẳng lưng, đưa nén hương cao ngang trán và tụng bài cúng hương. Sau đó lễ xá 3 cái rồi cắm hương vào bát.
  • Tán Phật, quán tưởng: Sau khi thắp hương, bạn trở lại tư thế quỳ thẳng lưng, bài tán thán Đức Phật, quán tưởng. Chú ý sau mỗi lần đọc phải xa vái 1 cái.
  • Đảnh lễ: Tiếp theo tiến hành đọc bài tụng muộn, sau đó đọc bài tụng niệm lư hương 3 lần.
  • Sau đó quý vị tụng Chú Đại Bi và Kinh Phật Nguyên. Bắt đầu tụng bài cầu siêu của kinh mở đầu Đức Phật đang nói Kinh A Di Đà. Hãy dùng nhiều tâm niệm kinh Đại Bát nhã – kinh rồi đến chân ngôn vãng sinh, khen ngợi Phật.
  • Sau đó, đọc thần chú Thất Phật diệt tội, phục nguyên và hồi hướng.
  • Sau cùng là tự quy và đảnh lễ cúi lạy Tam bảo thường trụ mười phương. Kết thúc bước này là kết thúc nghi lễ cầu siêu.

Nghi thức tụng kinh cho người mới mất nên được tiến hành và thực hiện trong suốt 49 ngày đầu tiên. Đây là thời điểm quan trọng vì thời gian này linh hồn vẫn còn đang ở dương gian, do đó linh hồn co thể hiểu, cảm nhận và nhận ra những tội nghiệp mà bản thân đã mắc phải khi còn sống. Ngoài ra, sau thời gian 49 ngày bạn vẫn có thể tiếp tục tụng kinh cho người mới mất. Điều này sẽ giúp tích lũy công đức để con cháu và gia đình được sống an yên, hạnh phúc.

Trọn Bộ Bài Kinh Tụng Kinh Cho Người Mới Mất Sớm Siêu Thoát

Trọn Bộ Bài Kinh Tụng Kinh Cho Người Mới Mất Sớm Siêu Thoát
Trọn Bộ Bài Kinh Tụng Kinh Cho Người Mới Mất Sớm Siêu Thoát

Chúng tôi  xin gửi đến bạn bài kinh cầu siêu cho người đã khuất, mời quý vị tham khảo để thực hiện tụng kinh cho người mới mất :

Niệm hương lễ bái

(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)

Tịnh pháp – giới chơn – ngôn

Án lam xóa ha. (3 lần)

Tịnh tam – nghiệp chơn – ngôn

Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

Cúng hương

(Thắp ba cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng hương)

Nguyện thử diệu hương vân,

Biến mãn thập phương giới,

Cúng dường nhứt-thế Phật,

Tôn pháp chư Bồ tát,

Vô biên Thanh văn chúng

Cập nhứt thế Thánh-Hiền,

Duyên khởi quang minh đài,

Xứng tánh tác Phật-sự,

Phổ huân chư chúng-sanh,

Giai phát Bồ-Ðề tâm,

Viễn-ly chư vọng-nghiệp,

Viên-thành vô-thượng đạo.

(Xá 3 xá rồi đọc bài kỳ nguyện)

Kỳ nguyện

Tư thời đệ-tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng-danh, tập thử công-đức, nguyện thập-phương thường-trú Tam-bảo, Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, tiếp dẫn đạo-sư A-Di-Ðà Phật, từ-bi tiếp độ hương linh….. pháp-danh….. phiền-não đoạn-diệt, nghiệp-chướng tiêu trừ, tốc xả mê đồ, siêu sanh Tịnh-độ, ngưỡng kỳ chư Phật từ-bi phóng quang tiếp độ hương-linh vãng sanh Cực-lạc quốc.

Tán phật

Pháp vương vô-thượng tôn

Tam-giới vô luân thất

Thiên nhơn chi Ðạo-sư

Tứ-sanh chi từ-phụ

Ư nhứt niệm quy-y

Năng diệt tam-kỳ nghiệp

Xưng dương nhược tán-thán

Ức kiếp mạc năng tận.

(Ðứng dậy cầm hướng lên lư rồi chắp tay đứng thẳng và niệm lớn)

Quán tưởng

Năng lễ, sở lễ tính không tịch,

Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,

Ngã thử đạo tràng như Ðế-châu,

Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,

Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,

Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.

  • Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. (1 lạy)
  • Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sinh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-Pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
  • Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di-Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)

Tán lư hương

(Ðứng ngay, vô chuông mõ và đồng tụng):

Lư hương xạ nhiệt,

Pháp giới mông huân,

Chư Phật hải hội tất diêu văn,

Tùy xứ kiết tường vân,

Thành ý phương ân,

Chư Phật hiện toàn thân.

Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát ma-ha-tát. (3 lần)

Chú đại bi

Nam-mô Ðại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.

Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.

Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (3 lần)

Khai kinh kệ

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,

Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,

Nguyện giải Như-Lai chân thật nghĩa.

Kinh A Di Đà

NAM-MÔ LIÊN-TRÌ HẢI-HỘI PHẬT BỒ-TÁT. (3 lần)

PHẬT THUYẾT A-DI-ÐÀ KINH

Ta nghe như vầy: Một thuở nọ đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc nước Xá Vệ. Cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại tỳ kheo đầy đủ tụ về: Đều là bậc A La Hán, mọi người đều biết, như là: Trưởng lão Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên. Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà. La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa. Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La. A Nậu Lâu Đà… những vị đại đệ tử như thế.

Và hàng Đại Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương  Tử. A Dật Đa Bồ Tát. Càn Đà Ha Đề Bồ Tát. Thường Tinh Tấn Bồ Tát… cùng với các vị Đại Bồ Tát như thế, với vô lượng chư Thiên như ông Thích Đề Hoàn Nhân v.v… đại chúng cùng đến dự hội.

Bấy giờ đức Phật bảo ngài trưởng lão Xá Lợi Phất rằng: “Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc. Trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.

Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực Lạc? Vì chúng sinh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức. Đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; Trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: Hoa sắc xanh thì ánh sáng xanh, sắc vàng thì ánh sáng vàng, sắc đỏ thì ánh sáng đỏ, sắc trắng thì ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trỗi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thì rưới hoa trời mạn đà la. Chúng sinh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác. Đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường. Nào chim Bạch hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng; Những giống chim đó ngày đêm sáu thì kêu tiếng hòa nhã. Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực. Thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần v.v… Chúng sinh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!

Xá Lợi Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sinh ra. Vì sao? Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ.

Xá Lợi Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi.

Xá Lợi Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sinh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá Lợi Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?

Xá Lợi Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại, vì thế nên hiệu là A Di Đà.

Xá Lợi Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.

Xá Lợi Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn nại đến nay, đã được mười kiếp.

Xá Lợi Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán. Chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ Tát chúng cũng đông như thế.

Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc, những chúng sinh vãng sinh vào đó đều là bực bất thối chuyển. Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sinh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được. Chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a tăng kỳ để nói thôi!

Xá Lợi Phất! Chúng sinh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sinh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhân như thế câu hội một chỗ.

Xá Lợi Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sinh về cõi đó.

Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà. Rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày. Hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn. Thì người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sinh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

Xá Lợi Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế. Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sinh về cõi nước Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà. Phương Đông cũng có đức A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật. Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sinh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá Lợi Phất!! Thế giới phương Nam có đức Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật. Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sinh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá Lợi Phất! Thế giới phương Tây có đức Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật. Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bửu Tướng Phật, Tịnh Quang Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sinh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá Lợi Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật. Nhựt Sinh Phật, Võng Minh Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sinh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá Lợi Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật. Đạt Mạ Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sinh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá Lợi Phất! Thế giới phương trên có đức Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bửu Hoa Nghiêm Thân Phật. Ta La Thọ Vương Phật, Bửu Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật. Như Tu Di Sơn Phật… Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: “Chúng sinh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá Lợi Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là Kinh: Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?

Xá Lợi Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó. Và nghe danh hiệu của đức Phật, thì những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm. Đều được không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chính Ðẳng Chính Giác.

Xá Lợi Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.

Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sinh về cõi nước của đức Phật A Di Đà. Thì những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sinh về rồi, hoặc hiện nay sinh về, hoặc sẽ sinh về.

Xá Lợi Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân. Nếu người nào có lòng tin thì phải nên phát nguyện sinh về cõi nước kia.

Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật. Các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy:

“Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Ngài vì các chúng sinh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này”.

Xá Lợi Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chính Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó!

Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá Lợi Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A Tu La… nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra.

A Di Đà Phật tán

Tây-phương Giáo-Chủ Tịnh-độ năng Nhân, Tứ thập bát nguyện độ chúng-sinh, Phát nguyện thệ hoằng thâm. Thượng-phẩm thượng-sinh, Ðồng phó Bửu-Liên thành.

Chí tâm đảnh lễ

(Mỗi câu đều đọc)

Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-Ðà Hải-hội, Vô-Lượng-Quang Như-Lai.

Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-Ðà Hải-hội, Vô-Biên-Quang Như-Lai.

Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-Ðà Hải-hội, Vô-Ngại-Quang Như-Lai.

Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-Ðà Hải-hội, Vô-Ðối-Quang Như-Lai.

Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-Ðà Hải-hội, Diệm-Vương-Quang Như-Lai.

Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-Ðà Hải-hội, Thanh-Tịnh-Quang Như-Lai.

Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-Ðà Hải-hội, Hoan-Hỉ-Quang Như-Lai.

Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-Ðà Hải-hội, Trí-Huệ-Quang Như-Lai.

Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-Ðà Hải-hội, Nan-Tư-Quang Như-Lai.

Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-Ðà Hải-hội, Bất-Ðoạn-Quang Như-Lai.

Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-Ðà Hải-hội, Vô-Xưng-Quang Như-Lai.

 Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-Ðà Hải-hội, Siêu-Nhật-Nguyệt-Quang Như-Lai.

Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh

Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhất thiết khổ, chân thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:

Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. (3 lần)

Vãng sinh quyết định chân ngôn

Nam-mô a di đa bà dạ, Ða tha dà đa dạ, Ða địa dạ tha.

A di rị đô bà tỳ,

A di rị đa tất đam bà tỳ,

A di rị đa tì ca lan đế,

A di rị đa, tì ca lan đa,

Dà di nị dà dà na,

Chỉ đa ca lệ ta bà ha.

Tán Phật

A-Di-Ðà Phật thân kim sắc

Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân

Bạch hào uyển-chuyển ngũ tu-di

Cám mục trừng thanh tứ đại hải.

Quang trung hóa Phật vô số ức,

Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên

Tứ thập bát nguyện độ chúng-sinh

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới đại-từ đại-bi A-Di-Ðà Phật.

Nam-mô A-Di-Ðà Phật. (Niệm nhiều ít tùy ý)

Nam-mô Ðại-bi Quán-thế-âm Bồ-tát. (3 lần)

Nam-mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát. (3 lần)

Nam-mô Ðại-Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần)

Nam-mô Thanh-tịnh Ðại-Hải chúng Bồ-tát. (3 lần)

Sám thập phương

Thập phương Tam-thế Phật

A-Di-Ðà đệ nhất,

Cửu phẩm độ chúng-sinh

Oai-đức vô cùng cực,

Ngã kim đại quy-y.

Sám-hối tam nghiệp tội,

Phàm hữu chư phước thiện,

Chí tâm dụng hồi-hướng.

Nguyện đồng niệm Phật nhân,

Cảm ứng tùy thời hiện,

Lâm chung Tây-phương cảnh,

Phân-minh tại mục tiền,

Kiến văn giai tinh tấn,

Ðồng sinh Cực-lạc quốc,

Kiến Phật liễu sinh-tử,

Như Phật-độ nhất-thiết,

Vô-biên phiền-não đoạn,

Vô-lượng pháp môn tu;

Thệ nguyện độ chúng-sinh,

Tổng giai thành Phật đạo;

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.

Mười đại nguyện

(Quỳ đọc)

Ðệ-tử chúng đẳng

Tùy-thuận tu tập

Phổ-Hiền Bồ-tát

Thập chủng đại nguyện:

Nhất giả lễ kính chư Phật,

Nhị giả xưng tán Như-Lai,

Tam giả quảng tu cúng-dường,

Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,

Ngũ giả tùy-hỷ công-đức,

Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,

Thất giả thỉnh Phật trụ thế,

Bát giả thường tùy Phật học,

Cửu giả hằng thuận chúng-sinh,

Thập giả phổ giai hồi-hướng.

Hồi hướng

Phúng kinh công-đức thù thắng hạnh,

Vô biên thắng phước giai hồi-hướng,

Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sinh,

Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát.

Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não,

Nguyện đắc trí-huệ chân minh liễu,

Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.

Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.

Nguyện sinh Tây-phương Tịnh-độ trung,

Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu,

Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh,

Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.

Nguyện dĩ thử công-đức,

Phổ cập ư nhất thiết,

Ngã đẳng dữ chúng-sinh,

Giai cộng thành Phật-đạo.

Thượng lai

(Vị chủ lễ xướng một mình như sau):

Ðệ-tử chúng đẳng, cung tựu Phật tiền, phúng tụng Ðại-thừa kinh chú, cập niệm Phật công đức, chuyên vì kỳ siêu hương linh….. Pháp danh….. tốc xả mê-đồ, siêu sinh Tịnh-độ.

Phục nguyện

Nhất thành thượng đạt, vạn tội băng tiêu, nguyện hương linh đắc độ cao-siêu, kỳ gia-quyến hàm triêm lợi-lạc.

Phổ nguyện

Âm siêu dương thới, pháp giới chúng-sinh, tình dữ vô tình, tề thành Phật đạo.

Nam-mô A-Di-Ðà Phật.

(Ðồng niệm)

Tam quy y

Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sinh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. (1 lạy)

Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sinh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)

Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sinh, thống-lý đại-chúng, nhất thiết vô ngại. (1 lạy)

NAM MÔ HỘ PHÁP DI ĐÀ TÔN THIÊN BỒ TÁT!

Lời Kết

Tụng kinh cho người mới mất là một nghi lễ quen thuộc và không thể thiếu trong văn hóa, phong tục của người Việt.

Tụng kinh cho người mới mất và cầu siêu hàng ngày không chỉ giúp cho linh hồn người đã khuất nhanh chóng được tái sinh, thoát khỏi luân hồi. Mà người đọc kinh còn được thanh lọc tâm hồn, tâm trí thanh thản, và nhận được sự an yên, hạnh phúc cho bản thân và gia đình từ những giá trị tích được qua quá trình thực hiện niệm kinh.

Cảm ơn bạn đã đọc bài viết Tụng Kinh Cho Người Mới Mất – Tụng Kinh Gì? Tụng Khi Nào? của Tụng Kinh Tại Nhà. Xem thêm nội dung liên quan tại chuyên mục Tụng Kinh nhé, cảm ơn các bạn đã ghé thăm!! 🙏